Thứ Tư, 14 tháng 3, 2018

// //

Diệt Côn Trùng - Sinh Vật Gây Hại - Chim

Tai nạn hàng không.
Ô nhiễm nguyên liệu và thành phẩm, có thể dẫn doanh nghiệp đến phá sản.
Chim có thể gây thiệt hại cho tài sản như làm tung ngói mái nhà, nghẹt hệ thống máng xối bằng tổ của chúng và phân của chúng ăn mòn vật liệu xây dựng.
Các rủi ro về an toàn đối với nhân viên và khách hàng – phân chim trơn có thể làm trượt và ngã.
Ô nhiễm thức ăn có thể dẫn đến các cơ quan y tế bị thanh tra về an toàn thực phẩm, công buộc đóng cửa/ tạm dừng hoạt động của công ty.
Ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh và danh tiếng của công ty.
Hình ảnh dơ bẩn của phân chim có thể làm nản lòng khách hàng tiềm năng muốn trở thành khách hàng thân thiết.
Chim có thể hung hăng và tấn công nhân viên hay khách hàng, nhất là trong mùa sinh sản khi chúng đang bảo vệ con của chúng.
Trong khi đa số các loài chim trong môi trường tự nhiên hoàn toàn vô hại, chim có thể mang hơn 60 bệnh truyền nhiễm, như bệnh khuẩn salmonella, viêm não, viêm màng não do nhiễm nấm cryptococcosis…  Điểm mấu chốt để thoát khỏi sự xâm nhập của chim là phát hiện sớm và các phương pháp đề phòng chim hiệu quả của chuyên gia kiểm soát dịch hại muốn vậy cần đòi hỏi công tác khảo sát và lập chương trình xua đuổi / ngăn chặn tổng hợp để đạt được kết quả mong muốn. Đòi hỏi sự hợp tác tốt giữa nhà cung cấp dịch vụ với chủ cơ sở.
Liên hệ PestMaster để được tư vấn tốt hơn
Read More
// //

Diệt Gián Đức


Gián Đức (Linnaeus) là thông dụng nhất trong các loài gián. Chúng có thể đẻ mức 6 thế hệ trong một năm.

Thói quen:

Gián Đức ăn hầu hết mọi thứ, cả xà phòng, keo và kem đánh răng. Chúng là kẻ chu du đến nơi mới thông qua túi tạp phẩm, hộp bìa cứng, thùng carton và những thứ đã qua sử dụng.

Môi trường sống:

Gián Đức thích sống trong môi trường ẩm, ấm gần nguồn thức ăn và nước đọng. Chúng thường được tìm thấy trong khu thương mại, nhà bếp và buồng tắm.

Mối đe dọa:

Ngoài việc quấy rối, chúng còn mang lại mầm bệnh dị ứng ở rất nhiều người. Chúng mang tới 33 loại vi khuẩn, 6 loài ký sinh và ít nhất là 7 mầm bệnh cho loài người. Chúng mang vi trùng trên ngạnh chân và cơ thể khi chúng leo lên chất mục rữa rồi lại bò lên thức ăn. Những nghiên cứu khoa học cho thấy gián Đức gây di ứng và có thể tăng cơn xuyễn, đặc biệt đối với trẻ con. Điều này cho thấy sự cần thiết của công tác kiểm soát gián Đức.

Kiểm soát và ngăn chặn gián Đức:

Tự hỏi làm thế nào để tống khứ gián Đức? Lời khuyên tốt nhất chính là thực hành vệ sinh. Làm kín những nơi chúng hay ẩn nắp. Giữ cho nhà bếp không có vết cáu bẩn. Sửa vòi nước không để rò rỉ. Loài gián này dùng các loại hóa chất diệt côn trùng thông thường sẽ không đạt hiệu quả tiêu diệt. Bạn nên dùng các loại bả gián sẽ kiểm soát chúng hay liên hệ chuyên gia kiểm soát dịch hại gần nhất.


Read More
// //

Diệt Côn Trùng - Kiến

Kiến cách tổ chức đời sống xã hội phức tạp và mang tính hợp tác cao giúp cho chúng sống sót, tồn tại và phát triển trong những điều kiện khắc nghiệt mà các loài khác gần như tiệt chủng. Kiến là loài thông minh và có những khả năng siêu phàm mà ta không thể tưởng tượng nổi “Kiến giết voi”. Mặc dù chúng đóng vai trò rất quan trọng trong môi trường thiên nhiên, chúng lại có thể là mối phiền toái khi chúng xâm nhập vào môi trường sống và làm việc của chúng ta.

Thói quen và khả năng siêu phàm

Kiến có khả năng khiêng vật bằng hàm trên nặng gấp 50 lần trọng lượng của cơ thể chúng.
Kiến giao tiếp và thông tin liên lạc với nhau bằng cách sử dụng chất pheromone có thể truyền những mệnh lệnh, báo động cho các thành viên khác trong tộc đoàn về dẫn đường đến một nguồn thức ăn đầy hứa hẹn hoặc nguy hiểm sắp diễn ra.
Kiến thợ có thể kiếm ăn cách xa tổ của chúng lên đến 200 mét và tìm đường trở lại đàn của mình bằng cách đi theo các dấu vết do con kiến khác để lại.
Kiến tiến hóa từ tổ tiên của chúng giống như ong vò vẽ ở thời kỳ khủng long cách đây 110 đến 130 triệu năm.
Kiến có thể sống sót dưới nước trong vòng 24 giờ.
Kiến là côn trùng thuộc Bộ cánh màng. Chúng có họ hàng gần với ong mật và ong vò vẽ.
Mỗi đàn kiến có thể có đến nửa triệu cá thể. Tất cả chúng có thể di chuyển một cách nhanh chóng nếu đàn của chúng bị đe dọa.
Kiến thợ có thể sống đến 7 năm, trong khi kiến chúa có thể sống đến 15 năm.

Môi trường sống:

Kiến ăn nhiều loại thức ăn. Một số ăn hạt giống, săn động vật khác và có cả loài ăn nấm… nhưng hầu hết chúng thích đồ ngọt & mật của rệp vừng. Hầu hết những gì chúng làm được là do bản năng (nghĩa là chúng không phải nghĩ hay tập làm những công việc này để làm như thế nào?). Các con kiến tìm mồi ở khắp mọi nơi, đôi khi lấy của các tổ khác.
Việc di chuyển thức ăn của chúng tương đối thuận lợi do có tính tập thể cao, chúng cùng nhau rìu thức ăn về tổ thành từng đàn, theo từng hàng lối nghiêm chỉnh.

Chúng có thể thích nghi mọi môi trường sống, đôi khi có thể nói là những môi trường khắc nghiệt.

Kiểm soát kiến:

Tất cả các loại thuốc diệt côn trùng đều có thể diệt kiến. Nhưng nếu không tìm được tổ của chúng thì cho dù phun thuốc diệt kiến chúng ta chỉ có thể diệt được kiến thợ mà vẫn không thể loại bỏ sự xuất hiện của chúng. Do đó, muốn diệt kiến triệt để thì chúng ta không thể bỏ qua công đoạn tìm tổ kiến để tiêu diệt.
THÔNG TIN LOÀI KIẾN
Kiến là loài côn trùng có tập tính xã hội thuộc họ Formicidae có họ hàng với loài ong, thuộc bộ Hymenoptera. Có khoảng 12.000 loài kiến, đa số các loài kiến phân bổ ở vùng nhiệt đới. Chúng được biết đến do tính tổ chức cao trong tập đoàn kiến, có những tổ kiến có đến hàng triệu cá thể. Các tập đoàn kiến thường chiếm cứ 1 khu vực rộng lớn. Tổ kiến thường được mô tả như một siêu tổ chức vì chúng được vận hành như  một thể thống nhất.
Kiến có thể thấy hầu hết mọi nơi trên Trái Đất. Những nơi không có sự tồn tại của các loài kiến bản địa là Nam cực, Greenland, Iceland,  một số khu vực của Polynesia, quần đảo Hawaii và một số đảo hẻo lánh hay các đảo không thuận lợi cho sự sống.
Mối, đôi khi được gọi là Kiến trắng, không có mối quan hệ gần gũi với kiến mặc dù 2 loài này có cấu trúc xã hội giống nhau.
Sự tiến hóa
Họ Formicidae thuộc bộ Hymenoptera. Phân tích về sinh học giống loài chỉ ra rằng kiến tiến hóa từ vespoids ở giữa kỷ Phấn trắng khoảng 120 – 170 triệu năm trước đây sau khi các cây hạt kín xuất hiện các đây khoảng 100 triệu năm, kiến đã phân chia thành nhiều loài và thống trị thế giới sinh vật khoảng 60 triệu năm trước đây. Nhiều  hóa thạch từ kỷ Phấn trắng là lớp trung gian giữa kiến và ong, đã cung cấp thêm bằng chứng về nguồn gốc của loài ong.

Hình thái học
Về mặt hình thái, kiến được phân biệt với các côn trùng khác bởi đôi râu gấp khúc và cơ thể chia thành 2 phần rõ rệt nối với nhau bởi phần eo rất hẹp. Phần eo được tạo bởi 1 hay 2 đốt.
Cơ thể kiến giống như các loài côn trùng khác bao gồm một bộ xương ngoài bao bọc toàn bộ cơ thể và một bộ phận để kết nối các cơ, khác với cấu tạo bộ xương bên trong của người và những động vật có xương sống khác. Côn trùng không  có phổi, ôxy và khí CO2 được trao đổi thông qua các lỗ tí hon ở bộ xương ngoài, còn gọi là lỗ thở.
Cơ thể kiến chia làm 3 phần : Đầu, ngực và bụng.
  • Đầu kiến có nhiều cơ quan cảm giác. Giống như hầu hết các loài côn trùng, kiến có đôi mắt kép, gồm nhiều thấu kính nhỏ kết hợp lại với nhau giúp chúng phát hiện sự chuyển động rất tốt. Chúng cũng có 3 mắt đơn ở trên đỉnh đầu giúp chúng cảm nhận cường độ của ánh sáng. Râu của kiến là cơ quan đặc biệt giúp chúng giao tiếp, phát hiện hóa chất, mùi được tiết ra từ các cá thể kiến khác. Râu cũng là cơ quan cảm nhận giúp chúng nhận biết được sự vật xung quanh. Đầu còn có đôi hàm khỏe, hàm dưới, dùng để mang thức ăn, xây tổ và để bảo vệ tổ.
  • Phần ngực có 3 đôi chân, ở cuối mỗi chân có hình dạng như các móc giúp kiến có thể leo trèo dễ dàng. Kiến chúa và kiến đực còn có thêm đôi cánh.
  • Phần bụng là nơi có nhiều cơ quan quan trọng, bao gồm cả cơ quan sinh sản. Hầu hết các loài kiến có ngòi dùng để chích hóa chất làm tê liệt con mồi hay để bảo vệ tổ.
Sự phát triển
Vòng đời của kiến bắt đầu từ trứng. Nếu trứng được thụ tinh sẽ nở thành kiến cái, nếu không sẽ thành kiến đực. Kiến là loài côn trùng có vòng đời thuộc dạng biến thái hoàn toàn, vòng đời trải qua các giai đoạn : trứng – ấu trùng – nhộng – con trưởng thành.
Giai đoạn ấu trùng hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của các cá thể khác trong tổ, vì chúng không có chân. Sự khác biệt giữa kiến Chúa và kiến thợ (cả 2 đều là giống cái) và các đẳng cấp kiến thợ khác nhau phụ thuộc vào sự nuôi nấng, chăm sóc trong giai đoạn ấu trùng. Thức ăn được cung cấp cho ấu trùng qua quá trình trao đổi thức ăn, kiến thợ sẽ ợ thức ăn để nuôi ấu trùng. Đây cũng là cách trao đổi thức ăn giữa các con trưởng thành trong tổ kiến. Ấu trùng và nhộng cần được giữ trong một nhiệt độ ổn định để đảm bảo cho sự phát triển của chúng. Do đó, chúng thường được di chuyển để hoán đổi vị trí giữa các khoang trong tổ kiến.
Một con kiến thợ trưởng thành thường sử dụng một vài ngày đầu để chăm sóc kiến Chúa và con non. Sau đó chúng sẽ chuyển sang làm công việc đào hang hay những công việc khác trong tổ kiến, tiếp đó là đi kiếm thức ăn và bảo vệ tổ kiến. Sự thay đổi chức năng đôi khi diễn ra một cách đột ngột và được định nghĩa là đẳng cấp kiến thời vụ. Giả thuyết cho sự thay đổi này diễn ra là do tỉ lệ kiến bị chết trong khi đi kiếm thức ăn tăng cao. Ở một số loài kiến, đẳng cấp kiến được phân theo kích cỡ. Kiến thợ phát triển theo những kích thước khác nhau : cỡ nhỏ, cỡ vừa và cỡ lớn. Thường thì những con kiến lớn sẽ phát triển không đồng đều với cái đầu lớn hơn, mang một đôi hàm lớn. Các cá thể này đôi khi gọi là “kiến lính” vì đôi càng to khỏe khiến cho chúng bảo vệ tổ hiệu quả hơn mặc dù chúng vẫn chỉ là kiến thợ và những vụ của chúng cũng không có khác biệt lớn với các kiến thợ cỡ nhỏ hay cỡ vừa.
Ở hầu hết các loài kiến thường gặp thường được tổ chức theo cách chỉ có kiến Chúa và kiến sinh sản mới có khả năng giao phối. Trái ngược với sự hiểu biết của nhiều người, một số tổ kiến có nhiều kiến Chúa. Kiến đực cùng với những con cái có khả năng sinh sản có cánh chúng không làm bất cứ công việc gì ngoài ăn và giao phối. Đến thời điểm thích hợp, các con đực cùng với kiến cái có khả năng sinh sản (ngoại trừ  kiến Chúa) sẽ bay ra khỏi tổ. Việc giao phối được thực hiện trong khi bay và con đực chết sau đó không lâu. Những con cái sau khi đáp xuống đất sẽ tìm một nơi thích hợp để thiết lập tổ kiến mới. Lứa kiến thợ đầu tiên thường yếu và có kích thước nhỏ hơn các lứa sau và chúng bắt đầu ngay công việc mở rộng tổ, tìm kiếm thức ăn và chăm sóc trứng,…
Đây là cách mà đa số các tổ kiến được hình thành. Ở một số loài kiến có nhiều kiến Chúa, tổ kiến mới có thể được hình thành bằng cách 1 con kiến Chúa tách khỏi tổ cũ cùng với một số lớn kiến thợ để tìm vị trí mới lập tổ.
Tập đoàn kiến có thể tồn tại trong thời gian dài. Kiến Chúa có thể sống đến 30 năm, trong khi kiến thợ sống từ 1-3 năm. Con đực chỉ sống 1 vài tuần.
Tập tính và đặc điểm sinh thái
Giao tiếp.
Kiến giao tiếp với nhau qua hóa chất gọi là pheromone. Giống như những loài côn trùng khác, kiến “ngửi” qua bộ râu dài và mỏng rất linh hoạt. Đôi râu cung cấp cho kiến thông tin về môi trường xung quanh. Vì phần lớn thời gian sống của kiến tiếp xúc với đất nên bề mặt đất là nơi thích hợp để chúng để lại  dấu vết bằng pheromone giúp những cá thể khác dễ dàng lần theo. Với những loài kiến kiếm ăn theo bầy, khi tìm được nguồn thức ăn những con kiến sẽ liên tục để lại dấu vết trên đường mang thức ăn trở về tổ để những cá thể khác lần theo đến chỗ có thức ăn. Khi nguồn thức ăn đã hết, dấu vết sẽ không được để lại bởi những con kiến trở về tổ do đó dấu vết sẽ từ từ mất đi. Thói quen này giúp kiến thích nghi với sự thay đổi của môi trường. Khi dấu vết dẫn đến nguồn thức ăn bị làm gián đoạn (bị mất hay bị vật cản,…) kiến sẽ tìm lối đi mới đến nguồn thức ăn. Nếu thành công, chúng sẽ để lại dấu vết trên con đường mới này cho những cá thể khác đi theo và mỗi con kiến lại tiếp tục để lại pheromone trên lối đi này. Vị trí của tổ được kiến xác định theo sự ghi nhớ về địa hình cũng nhưng là vị trí của mặt trời.
Kiến cũng sử dụng pheromone cho những mục đích khác. Một con kiến bị thương nặng khi bảo vệ tổ sẽ thải ra pheromone có nồng độ cao, như một tín hiệu báo động,  để gửi tín hiệu tấn công dữ dội kẻ địch cho những con kiến gần đó; nếu với nồng độ thấp thì chỉ có ý nghĩa gây sự chú ý mà thôi. Ở một số loài kiến, chúng còn tiết ra pheromone nhằm mục đích khiến cho kẻ thù tự tấn công lẫn nhau.
Pheromone cũng được để lại trong thức ăn trong quá trình kiến trao đổi thức ăn với những cá thể khác để cung cấp thông tin về tình trạng sức khỏe của một cá thể kiến nào đó. Kiến cũng có thể phát hiện một cá thể kiến nào đó thuộc về đẳng cấp kiến nào trong tổ. Khi con kiến Chúa ngưng tiết ra một loại phromone đặc biệt thì kiến thợ sẽ tập trung vào con kiến Chúa mới.
Tự vệ
Kiến tấn công các loài khác và bảo vệ tổ bằng cách dùng đôi hàm để cắn và ở nhiều loài kiến chúng còn sử dụng cách tiêm nọc độc.
Bên cách việc tự vệ chống lại các mối nguy hiểm bên ngoài, kiến cũng cần bảo vệ tổ chống lại các sinh vật gây bệnh. Một số kiến thợ có nhiệm vụ duy trì tình trạng vệ sinh của tổ kiến, công việc của chúng bao gồm cả việc dọn dẹp các xác kiến chết trong tổ.
Tổ kiến cũng được bảo vệ chống lại các mối đe dọa của tự nhiên như lụt bởi cấu trúc phức tạp của lối ra vào hay có những khoang đặc biệt để thoát hiểm khi bị ngập nước.
Cấu trúc tổ kiến.
Trong một số loài kiến xây dựng những cái tổ phức tạp với nhiều lối đi lại, một số loài khác thường du cư và không xây tổ cố định. Nhiều loài kiến làm tổ dưới đất hay trên cây. Tổ kiến có thể nằm trên mặt đất với các ụ, gò ở lối vào tổ; bên dưới tảng đá, trong các cấu trúc rỗng,… Vật liệu dùng để xây tổ gồm có đất, cây,… và chúng thường chọn lựa kỹ càng nơi làm tổ.
Kiến và con người
Kiến rất hữu ích trong việc tiêu diệt các côn trùng gây hại và làm thông thoáng đất. Mặt khác, chúng cũng gây phiền phức cho chúng ta khi chúng xâm nhập nhà, sân vườn,… Kiến Carpenter khi làm tổ trong vật dụng bằng gỗ làm cho đồ gỗ bị rỗng và hư hỏng.
Read More
// //

Diệt Chuột

Mô tả

Chuột nhắt nhà (Mus musculus):

là loài gặm nhấm nhỏ trọng lượng từ 12 – 30gm và là một trong những loài có số lượng lớn nhất của chi Chuột nhà.

Chuột lắt (Rattus exulans):

trọng lượng từ 24 – 56gm là loài chuột cống phổ biến thứ ba trên thế giới sau chuột nâu và chuột đen.

Chuột đen (Rattus rattus)

là một loài động vật gặm nhấm dài đuôi phổ biến của loài trong chi Rattus trong phân họ Murinae. Con chuột đen lớn điển hình có chiều dài 32,4-46,4 cm, bao gồm đuôi dài 17–25 cm và cân nặng 110-340 g.

Chuột nâu là một trong những loài chuột lớn nhất, nó có màu nâu hoặc màu xám với chiều dài cơ thể 25 cm, và một cái đuôi dài tương tự, con đực nặng trung bình 350 g

Chuột chù nhà:

tên khoa học Suncus murinus. Đây là một loài chuột chù phổ biến. Loài này chủ yếu được tìm thấy tại Nam Á và Đông Nam Á nhưng đã được tìm thấy rộng rãi trên toàn Châu Á và phía đông Châu Phi.
Đây là loài con chuột chù lớn với mùi xạ hương mạnh mẽ.
Nói chung, chúng có lợi là ăn côn trùng như có hại gián thậm chí cả chuột nhắt. Nó còn được xem như kiểm soát dịch hại sinh học. Không giống chuột cống, mức sinh sàn thấp. Dù là công cụ kiểm soát côn trùng nhưng phân của chúng có mùi nặng trong nhà bếp…Chúng cũng ăn thức ăn của người, của gà, của chó, mèo. Cũng ăn gà con nhưng không thường như chuột cống.

Thói quen

Chuột chủ yếu hoạt động ban đêm, kể cả lúc hoàng hôn, chúng không thích ánh sáng chói. Thời gian ngủ trung bình là 12,5 giờ / ngày.

Môi trường sống:

Ổ chuột thường làm tổ / ổ gần nguồn thực phẩm và được làm từ các vật liệu mềm.

Mối đe dọa:

Chúng sống gần con người, gây hại lương thực, thực phẩm bảo quản, cho vật nuôi khác… Lây lan dịch bệnh chết người như bệnh trùng xoắn móc câu, sốt ban chuột và bệnh dịch hạch. Mối đe dọa nữa là vì răng của chúng tự mọc dài ra nên để kiểm soát độ dài của răng chúng phải cạp các vật cứng để mài mòn răng của chúng.

Kiểm soát chuột:

Kiểm soát chuột yêu cầu phải bắt đầu từ nguồn thực phẩm mà chúng ta vô tình cung cấp cho chúng. Hãy làm sao cho chúng chỉ có thể ăn những thức ăn chúng ta cho chúng, để chúng phải mạo hiểm vào những hộp bẫy đã được chúng ta giăng sẵn. Chuột là loài tinh ranh nên chúng ta phải liên tục thay đổi cách thức đánh bẫy / bả để lừa chúng. Trong trường hợp chúng phát triển thành dịch, hãy nhanh chóng liên hệ với chuyên gia kiểm soát dịch hại.

Read More